Trước đó, vào lúc 3h30 2/2, tại cửa hàng gỗ Ngô Văn Đeo, đám cháy bốc lên nghi ngút, khói mù trời. Nhiều người dân đi đường phát hiện đã chạy đến gõ cửa báo nhưng do thời điểm xảy ra vụ cháy, cả gia đình chủ cửa hàng đang ngủ say nên không ai nghe thấy. Người dân đã gọi điện thẳng đến lực lượng phòng cháy và chữa cháy.
“Thuận thiên" giúp được gì cho môi trường?
"Nông nghiệp 'thuận thiên' mang đến lợi ích cho môi trường qua việc bảo vệ tài nguyên thiên nhiên. Sử dụng phương pháp canh tác bền vững giúp bảo vệ đất, nước, và rừng. Điều này cải thiện chất lượng đất, giảm ô nhiễm môi trường và bảo tồn đa dạng sinh học, nhờ vào các biện pháp canh tác thân thiện với môi trường và duy trì cân bằng sinh thái.
Ngoài ra, nông nghiệp 'thuận thiên' cũng giúp giảm rủi ro từ thiên tai, bao gồm BDKH và xâm nhập mặn, thông qua việc áp dụng các kỹ thuật canh tác thích ứng với BDKH, giúp người dân giảm thiểu thiệt hại từ các sự kiện thiên tai."
Nguồn: Abavina - Cộng đồng nông nghiệp Thuận Thiên
Trước hết, chúng ta nên làm rõ về khái niệm Biến Đổi Khí Hậu (BDKH) là gì?
Theo định nghĩa của Liên Hợp Quốc, BDKH phản ánh sự thay đổi dài hạn về nhiệt độ và các hiện tượng thời tiết. Những thay đổi này là tự nhiên, nhưng kể từ những năm 1800, tác động của con người là nguyên nhân chính gây ra biến đổi khí hậu, chủ yếu do đốt nhiên liệu hóa thạch (như than, dầu và khí đốt) tạo ra khí giữ nhiệt.
BDKH có thể gây ra những tác động nghiêm trọng đối với môi trường, nền kinh tế và xã hội, bao gồm tăng mực nước biển, sự biến đổi của môi trường sống, tăng tần số của các hiện tượng thời tiết cực đoan như hạn hán và lũ lụt, và tác động đến năng suất nông nghiệp.
Nông nghiệp "thuận thiên" sử dụng các kỹ thuật canh tác thích ứng với BDKH, giúp người dân giảm thiểu thiệt hại do thiên tai. Điều này rất quan trọng đối với Đồng bằng sông Cửu Long, một vùng đất dễ bị tổn thương bởi thiên tai.
Dự án "Abavina - Cộng đồng nông nghiệp Thuận Thiên": đi cùng sự phát triển của nông dân nữ
Tại Hậu Giang và Cần Thơ hiện nay, thu nhập của các hộ nông dân nữ ở tỉnh còn thấp và không ổn định, do phụ thuộc vào diện tích canh tác nhỏ, năng suất thấp, và chi phí sản xuất cao. Bên cạnh đó, nông dân nữ thiếu kiến thức và kỹ năng sản xuất nông nghiệp bền vững, dẫn đến suy thoái môi trường và sức khỏe, cũng như gặp khó khăn trong việc tiếp cận thị trường và các dịch vụ hỗ trợ.
Vì vậy mà dự án "Abavina - Cộng đồng nông nghiệp Thuận Thiên đã được cho ra đời vào năm 2017. Đây là một dự án quan trọng của công ty Abavina, nhằm hỗ trợ phụ nữ ở Hậu Giang và Cần Thơ trong việc phát triển sinh kế xanh. Từ khi triển khai, dự án đã có ảnh hưởng tích cực bằng cách nâng cao thu nhập, cải thiện môi trường và sức khỏe cho cộng đồng nông dân nữ ở các tỉnh này. Ngoài ra, dự án cũng đã đóng góp vào việc thúc đẩy phát triển nông nghiệp bền vững trong vùng Đồng bằng sông Cửu Long.
Nguồn: Abavina - Cộng đồng nông nghiệp Thuận Thiên
Dự án đang tập trung vào những mục tiêu như:
Cùng nông hộ xây dựng phương án sinh kế nông nghiệp dựa vào tài nguyên bản địa được thiết kế tùy chỉnh theo đặc điểm của từng nông hộ, theo hướng tối ưu hoá trên tài nguyên sẵn có và tăng thu nhập
Đồng hành, huấn luyện nông hộ biết tổ chức và quản lý kinh tế hộ gia đình, phát triển tư duy tự chủ, năng lực tự chủ và năng lực hợp tác của nông hộ
Liên kết nông hộ tham gia chuỗi cung ứng nông sản của Abavina; Kết nối thị trường & phân phối sản phẩm đâu ra
Thúc đẩy hợp tác phát triển giữa nông hộ và các bên liên quan, thúc đẩy kết nối, học hỏi, hợp tác nguồn lực
Tạo điển hình sản xuất và lan tỏa phương pháp thực hành để thúc đẩy hình thành cộng đồng nông nghiệp quy mô nhỏ dựa vào tài nguyên bản địa. Theo đó tài nguyên địa phương tối ưu hoá trong mô hình sản xuất tuần hoàn, khai thác bền vững và phục hồi hệ sinh thái.
Phát triển các dòng sản phẩm giá trị gia tăng (nông sản, thảo dược) từ tài nguyên bản địa, tạo giá trị gia tăng cho nông hộ sản xuất, người tiêu dùng và địa phương
Phát triển thị trường, phân phối sản phẩm cho nông hộ, và xây dựng thương hiệu nông sản thuận tự nhiên Abavina
Truyền thông và thúc đẩy nhân rộng mô hình cộng đồng nông nghiệp dựa vào tài nguyên bản địa
Đến nay, dự án đã đạt được những kết quả và tác động tích cực, góp phần nâng cao sinh kế, cải thiện môi trường và sức khỏe cho cộng đồng nông dân nữ ở tỉnh Hậu Giang và Cần Thơ.
Năng suất và chất lượng nông sản từ các hộ nông dân đã trải qua sự cải thiện đáng kể, điều này đã dẫn đến việc tăng thu nhập trung bình của họ lên tới 30%.
Nguồn: Abavina - Cộng đồng nông nghiệp Thuận Thiên
Ngoài ra, các hộ nông dân đã tích lũy kiến thức và kỹ năng cần thiết để thực hiện sản xuất và kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp bền vững. Trong đó nông dân nữ đã có cơ hội tiếp cận thị trường và các dịch vụ hỗ trợ, đồng thời họ đã xây dựng được vị thế và tiếng nói trong cộng đồng. Qua đó,nhận thức về việc bảo vệ môi trường đã được nâng cao trong cộng đồng các hộ nông dân, từ đó môi trường và hệ sinh thái địa phương cũng có nhiều sự cải thiện đáng kể.
Xem thêm: Khóa học e-Learning cung cấp kiến thức kỹ năng cho người trẻ thực hành công việc tạo tác động xã hội bền vững. Và chờ đón khoá học online về ESG chuẩn bị ra mắt.
Các bạn tham gia vào group Sự Nghiệp Hạnh Phúc để cùng với DOC lan tỏa nhiều giá trị tốt đẹp, học hỏi lẫn nhau, cùng nhau phát triển thật bền vững nhé
Nguồn: Abavina - Cộng đồng nông nghiệp Thuận Thiên
Tác động của biến đổi khí hậu tới các nước đang phát triểnTrong khi biến đổi khí hậu (nắng nóng, hạn hán và mưa lớn...) tác động có mức độ tới các nền kinh tế phát triển thì nó lại là hiểm họa đối với nhiều nước đang phát triển bởi nó ảnh hưởng tới tất cả các lĩnh vực kinh tế, nông nghiệp và cuộc sống an sinh xã hội của người dân nơi đây.Biến đổi khí hậu gây thiệt hại kinh tế, suy giảm GDP Thiệt hại về kinh tế do biến đổi khí hậu gây ra lên tới 125 tỷ USD/năm, cao hơn tổng số tiền viện trợ của các nước phát triển dành cho các nước nghèo trên thế giới. Và mức tổn thất này có thể sẽ lên tới 600 tỷ USD/năm vào năm 2030. Hậu quả của việc sử dụng quá mức nhiên liệu hóa thạch, gây nên lượng khí thải các-bon đi-ô-xít (CO2) tăng, khiến chính phủ các nước phải hỗ trợ khoảng 150 tỷ USD/năm. Khoản chi phí này đã cản trở việc chuyển đổi sang nền kinh tế xanh dựa vào năng lượng tái tạo. Nếu bỏ được khoản chi phí này, GDP toàn cầu có thể tăng thêm 0,1% mỗi năm và điều quan trọng là lượng khí thải gây hiệu ứng nhà kính có thể giảm đến 6%/năm. Các quốc gia đang phát triển sẽ phải hứng chịu phần lớn thiệt hại về kinh tế do thiếu cơ sở vật chất bảo vệ, điều kiện kinh tế bấp bênh và năng lực tài chính cũng như thiết bị chống biến đổi khí hậu hạn chế.Theo Ủy ban Kinh tế Mỹ La-tinh và Ca-ri-bê của Liên hợp quốc (ECLAC), thiệt hại hằng năm do thiên tai ở khu vực này vào khoảng 8,6 tỷ USD trong giai đoạn 2000 - 2008. Nếu không có các biện pháp ứng phó, thiệt hại do biến đổi khí hậu năm 2100 của khu vực Mỹ La-tinh và Ca-ri-bê sẽ chiếm tới 137% GDP (khoảng 250 tỷ USD). Mức thiệt hại trung bình do biến đổi khí hậu gây ra đối với 4 nước đang phát triển Đông Nam Á (In-đô-nê-xi-a, Phi-líp-pin, Thái Lan và Việt Nam) tương đương 6,7% GDP vào năm 2100, tức gấp đôi mức thiệt hại trung bình trên thế giới. GDP của các nước châu Phi và Ðông Á sẽ thiệt hại từ 4%-5% nếu nhiệt độ trái đất tăng 2 độ C.Việt Nam là một trong những quốc gia bị ảnh hưởng nhiều của biến đổi khí hậu do đặc điểm có bờ biển dài và các vùng châu thổ đất thấp dễ bị ảnh hưởng của bão, lốc, lượng mưa cao và thất thường. Trong thập kỷ đầu thế kỷ XXI, mỗi năm Việt Nam thiệt hại từ 1%-1,5% GDP do biến đổi khí hậu. Theo dự báo của các nhà khoa học, mực nước biển sẽ dâng lên 5cm mỗi năm và nếu nước biển dâng 1m sẽ làm giảm 7% sản luợng nông nghiệp và 10% GDP và nếu dâng lên từ 3-5 m thì điều này đồng nghĩa với " thảm họa sẽ xảy ra" ở Việt Nam. Biến đổi khí hậu làm giảm sản lượng lương thực, tăng nghèo đóiBiến đổi khí hậu làm sản lượng nông nghiệp bấp bênh, đẩy hàng trăm triệu người có thể lâm vào nghèo đói. Châu Phi có nguy cơ mất 30% sản lượng ngô vào năm 2030 do biến đổi khí hậu. Tình trạng khí hậu nóng lên làm giảm năng suất các vụ mùa tại nhiều khu vực trên thế giới. Theo đánh giá của Ngân hàng châu Á (ADB), nếu nhiệt độ bình quân tăng lên 1độ C thì năng suất lúa sẽ giảm 10%, sản lượng gạo có thể giảm 50% cho đến năm 2100 và điều này vô cùng quan trọng với những quốc gia như Việt Nam, Thái Lan. Thực trạng này sẽ đe dọa nghiêm trọng đến an ninh lương thực và ảnh hưởng đến hàng trăm triệu người ở các nước đang phát triển, bởi vì cứ 1 tỷ người dân có mức sống dưới 1USD/ ngày thì có đến 750 triệu người phụ thuộc vào nông nghiệp. Theo WB, chỉ cần nhiệt độ trái đất tăng lên thêm 2 độ C cũng có thể khiến 400 triệu người có nguy cơ bị đói và 2 tỷ người thiếu nước dùng. Biến đổi khí hậu tác động tiêu cực đến thời vụ sản xuất nông nghiệp, làm thay đổi cấu trúc mùa, quy hoạch vùng, kỹ thuật tưới tiêu. Sự thay đổi thời tiết dẫn đến phát sinh bệnh mới đối với trồng trọt và chăn nuôi và có nguy cơ phát triển thành đại dịch bệnh.Thời tiết khắc nghiệt ảnh hưởng đến sản lượng nông nghiệp và làm tăng giá lương thực chủ yếu là ngũ cốc - một loại lương thực rất quan trọng đối với các hộ dân nghèo ở các nước đang phát triển. Theo báo cáo của WB, giá gạo ở Mum-bai (Ấn Độ) đã tăng 25% vào tháng 8-2009 do những cơn mưa như trút nước vào đúng thời điểm thu hoạch lúa. Sản lượng lúa gạo của Ấn Độ cũng bị giảm 17 triệu tấn so với mức thu hoạch được 82 triệu tấn năm 2008. Bão Ketsana và Parma hồi tháng 10-2009 đã khiến cánh đồng lúa đang chờ thu hoạch của Phi-líp-pin bị ngập nước, làm giảm 1 triệu tấn lúa gạo và buộc nước này phải mua thêm 300.000 tấn gạo trên thị trường thế giới.Hiện nay trên thế giới có khoảng 3 tỷ người đang sống trong các khu vực khí hậu nhiệt đới và cận nhiệt đới. Đến cuối thế kỷ XXI, con số này sẽ tăng lên gấp đôi. Và với tác động không ngừng của biến đổi khí hậu, trong một thời gian nữa, hàng trăm triệu người trên thế giới sẽ phải đối mặt với nguy cơ thiếu lương thực và thực phẩm. Các quốc gia Băng-la-đét, Mê-hi-cô, và Cộng hòa Dăm-bi-a có tỷ lệ dân số lâm vào cảnh nghèo lớn nhất, với tỷ lệ lần lượt là 1,4%, 1,8% và 4,6% mỗi năm bởi các vấn nạn về khí hậu. Điều này đồng nghĩa với việc thế giới sẽ có thêm 1,8 triệu người bị bần cùng hóa ở Băng-la-đét, Mê-hi-cô và có thêm nửa triệu người ở Cộng hòa Dăm-bi-a. Biến đổi khí hậu gây ảnh hưởng đến tính mạng, tài sản và an sinh xã hội của người dânTheo Chương trình phát triển (UNDP) của Liên hợp quốc, hằng năm biến đổi khí hậu gây ảnh hưởng đến 262 triệu người, trong đó phần lớn thuộc các nước đang phát triển và nó đang trở thành thảm họa lớn nhất của nhân loại. Năm 2008, số người bị mất nhà cửa do thiên tai như bão, lũ, động đất.... đã lên tới 36 triệu người (gấp 4 lần so với số người bị mất nhà cửa trong các cuộc xung đột và chiến tranh trên toàn cầu). Số người bị tác động bởi hạn hán, nước biển dâng cao... thậm chí còn lớn hơn nhiều. Việt Nam, In-đô-nê-xi-a là những quốc gia đang phát triển phải chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của biến đổi khí hậu, của nhiệt độ tăng cao và lượng khí thải gây hiệu ứng nhà kính. Biến đổi khí hậu đã làm mực nước biển dâng khiến In-đô-nê-xi-a mất đi một số lượng lớn các đảo, trong khi vùng duyên hải của Việt Nam cũng có nguy cơ bị nước biển “xóa sổ” hoàn toàn. Hằng năm, bão lũ ở Đông Nam Á đã khiến hàng nghìn người thiệt mạng, gây thiệt hại hàng nghìn tỷ USD. Trận động đất hồi tháng 10-2009 tại In-đô-nê-xi-a làm hơn 1.100 người thiệt mạng và gần 4.000 người bị chôn vùi trong đống đổ nát, hàng chục nghìn người bị mất nhà cửa và hàng trăm triệu người phải di cư tìm đất sống. Nước biển dâng cao do biến đổi khí hậu cũng sẽ làm mất đi 12,2% diện tích đất của Việt Nam, đe dọa nơi sinh sống và sản xuất của 17 triệu người. Nếu nước biển dâng cao 1m, sẽ làm ngập 0,5 triệu ha lúa ở đồng bằng sông Hồng, và 1,5-2 triệu ha lúa ở đồng bằng sông Cửu Long. Lũ lớn cũng làm cho 90% diện tích của khu vực đồng bằng sông Cửu Long bị ngập từ 4-5 tháng mỗi năm. Ngược lại, mùa khô lượng nước ở khu vực này lại giảm 29% gây ra tình trạng hạn hán trầm trọng. Dự báo, nếu tốc độ thải khí CO2 vẫn tiếp tục diễn ra như hiện nay thì nhiệt độ trung bình trái đất sẽ ấm lên 4 độ C vào năm 2060, đe dọa tới nguồn nước của gần 50 % dân số thế giới, gây thiệt hại rất lớn tới vật nuôi và cây trồng.Giải pháp ứng phó với biển đổi khí hậuKhông phải ngẫu nhiên Hội nghị "Liên kết chống biến đổi khí hậu" diễn ra ở Cô-pen-ha-ghen (Đan Mạch) tháng 12-2009 thu hút được sự quan tâm của mọi quốc gia. Đối phó với biến đổi khí hậu là nhiệm vụ cần thiết để thực hiện công bằng xã hội và giảm nghèo. Trên thực tế, hiện các quốc gia trên thế giới đang phối hợp ở các tầng cấp khác nhau thực hiện các giải pháp ứng phó với sự biến đổi khí hậu.Cung cấp rộng rãi hệ thống thông tin, cảnh báo sớm đối với biến đổi khí hậu và phối hợp chặt chẽ giữa chính quyền địa phương, tư nhân, các tổ chức phi chính phủĐể đối phó hiệu quả với vấn đề biến đổi khí hậu đòi hỏi công tác dự báo, cảnh báo phải sớm và chính xác. Đây là giải pháp mang tính tập thể. Các quốc gia cần mở rộng mạng lưới quan trắc, bổ sung các trạm quan trắc chất lượng nguồn nước, chất lượng không khí, đổi mới máy móc thiết bị, nâng cao nghiệp vụ của đội ngũ dự báo viên, nâng cấp công tác dự báo thiên tai. Ngoài ra, cần có sự hợp tác chặt chẽ giữa nhà nước, tư nhân và các tổ chức phi chính phủ. Khác với nông dân tại các nước phát triển, nông dân ở các nước đang phát triển rất ít được cập nhật về tình trạng khí hậu nơi mình sinh sống và canh tác. Do đó, các giải pháp đến với họ rất khó khăn. Vì vậy, mô hình phối hợp giữa chính quyền địa phương, tư nhân và các tổ chức phi chính phủ được xem là cần thiết. Giải pháp này đã được áp dụng tại Ê-thi-ô-pi-a và đã cho thấy kết quả tốt. Chương trình tập trung vào ngôi làng A-di Ha, nơi có 40% hộ trồng “teff” - một loại ngũ cốc. Mục đích của chương trình là phát triển cách thức quản lý đối phó với rủi ro, trong đó có cải thiện các giải pháp quản lý đất đai, chuyển giao công nghệ và tăng tính cạnh tranh cho nông sản. Giải pháp này đã giúp nông dân vững tin và chủ động hơn với các vụ mùa, giảm nhẹ tác hại do thiên tai gây ra. Nghiên cứu các giống cây lương thực chịu đựng với thời tiết thay đổi Tình trạng khí hậu nóng lên đã và đang làm giảm năng suất các vụ mùa tại nhiều khu vực trên thế giới. Nhiệt độ trái đất tăng cao, dự báo sẽ làm giảm sản lượng các loại cây lương thực thiết yếu như lúa, lúa mạch từ 20%-40%. Khí hậu nóng lên cũng làm đất mất độ ẩm, khô cằn và dẫn đến nguy cơ mất mùa cao. Vì vậy, cần tập trung đầu tư vào các dự án hạ tầng có quy mô lớn để đối phó với hạn hán, lũ lụt, nắng nóng và mưa lớn đang ngày càng nhiều hơn và với cường độ mạnh hơn. Theo dự báo của các nhà khoa học, thời tiết nóng sẽ thường xuyên xuất hiện trong những thập kỷ tới, do vậy, giải pháp tiếp theo là phải nhanh chóng nghiên cứu các giống cây lương thực có khả năng thích nghi hơn với khí hậu này. Chính vì vậy, tại bang An-đra Pra-đét của Ấn Độ, các nhà khoa học đã giúp người nông dân tìm ra những loại cây trồng có khả năng chịu khô hạn, như cây kê thay vì trồng lúa.Còn tại khu vực Đông Nam Á, quá trình phát triển ven biển, đánh bắt quá mức, sử dụng thuốc trừ sâu trong nông nghiệp và việc dinh dưỡng đất bị cuốn trôi đang khiến khu vực này chịu nhiều sức ép từ ô nhiễm công nghiệp. Theo Ủy ban Liên Chính phủ về biến đổi khí hậu (IPCC), 17% khí thải gây hiệu ứng nhà kính được sản sinh từ việc triệt phá rừng. Đây là nguồn khí thải độc hại lớn thứ 2 sau nhiên liệu hóa thạch. Nếu không có giải pháp ngăn chặn triệt để việc phá rừng (nhất là rừng nhiệt đới), lượng khí thải CO2 thoát ra sẽ tăng rất lớn, thậm chí vượt lượng khí thải của nhiên liệu hóa thạch nhiều lần. Vì vậy, việc trồng rừng và tăng cường quản lý rừng sẽ giúp giảm trừ lượng khí thải, giảm nhiệt độ không khí và quan trọng là giảm trừ được thiệt hại do biến đổi khí hậu gây ra. Chuyển đổi các hệ thống năng lượng theo hướng sử dụng hiệu quả hơn và công nghệ tiêu thụ các-bon thấp hơnSự tăng trưởng kinh tế cao của các nước đang phát triển ở khu vực Đông Nam Á kèm theo mật độ đô thị hóa dày, nạn chặt phá rừng bừa bãi và những thay đổi đáng kể về mục đích sử dụng đất đã khiến các nước đang phát triển ở khu vực này phải trả giá đắt về môi trường. Than đá vẫn là nguồn nhiên liệu chính trong khu vực và hầu hết các nước đều có nhu cầu cao về năng lượng phục vụ giao thông vận tải và phát triển đô thị. Nếu cứ tiếp tục duy trì mô hình tăng trưởng kinh tế sử dụng công nghệ các-bon cao sẽ sinh ra nhiều khí thải gây hiệu ứng nhà kính hơn, và cuối cùng dẫn đến biến đổi khí hậu. Khí các-bon-níc (CO2) là loại khí gây hiệu ứng nhà kính mạnh nhất. Theo Cơ quan Năng lượng quốc tế, khí thải CO2 sẽ tăng lên 130% vào năm 2050. Vì vậy, các nước đang phát triển phải thực hiện ngay giải pháp thải ít loại khí này để tránh phải sử dụng hạ tầng kinh tế các-bon cao. Ngoài ra, cộng đồng quốc tế cũng cần tăng cường đầu tư để chuyển dần nền kinh tế toàn cầu sang nền kinh tế thải ít khí các-bon.Giải pháp "cơ chế phát triển sạch" (CDM) cắt giảm lượng khí thải gây hiệu ứng nhà kínhPhát triển kinh tế cần đi đôi với giảm thiểu khí các-bon, giảm phát thải khí nhà kính. Điều này sẽ giúp làm giảm chi phí để đối phó với thiệt hại do biến đổi khí hậu gây ra từ mức 5% GDP toàn cầu xuống còn khoảng 1% GDP hằng năm. Theo Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), nếu không cắt giảm lượng khí thải gây hiệu ứng nhà kính thì nhiệt độ trung bình tại khu vực Đông Nam Á sẽ tăng thêm 4,8 độ C đến năm 2100, khiến mực nước biển dâng cao thêm 0,7m. Hậu quả là sản lượng lúa của 4 nước Đông Nam Á gồm Phi-líp-pin, Việt Nam, Thái Lan và In-đô-nê-xi-a có thể giảm tới 50%. Theo Ủy ban liên Chính phủ về biến đổi khí hậu (IPCC) để nhiệt độ trái đất không tăng quá 2 độ C từ nay đến năm 2100, thế giới cần giảm 60% lượng khí thải CO2 liên tục từ nay đến năm 2050.Với giải pháp này, các nước có lượng khí thải gây hiệu ứng nhà kính giảm thiểu sẽ được cấp Chứng chỉ xác nhận giảm phát thải (Certified Emission Reduction - CER) hay còn được gọi là Chứng chỉ các-bon. Khi có loại chứng chỉ này, một nước có thể chuyển nhượng “quyền phát thải” của mình cho các nước khác để được hưởng lợi ích kép (win - win gains). Thu nhập từ việc chuyển nhượng Chứng chỉ các-bon và Thực hiện được “mô hình phát triển sạch”, đồng nghĩa với “phát triển bền vững”. Từ đó “quyền phát thải” trở thành một loại hình tài nguyên mới có ý nghĩa xã hội hơn bất cứ tài nguyên nào. Ðể tăng nguồn tài chính của mình, các nước kém phát triển sẽ phải bán tài nguyên cho các nước phát triển hơn. Mỹ là quốc gia tiêu thụ nhiều dầu nhất thế giới tiếp đến là Trung Quốc và Nhật Bản. Các quốc gia này chắc chắn thuộc nhóm phát thải lớn và họ có nhu cầu mua tài nguyên phát thải của các nước khác, đặc biệt từ các nước có nền công nghiệp kém phát triển. Tuy nhiên, chúng ta cũng không nên thụ động chờ đợi việc giảm khí thải nhà kính trên phạm vi toàn cầu, mỗi quốc gia cần phải có một chương trình đủ mạnh để vừa tham gia tích cực nhất vào việc giảm khí thải gây hiệu ứng nhà kính, vừa xây dựng hệ thống các công trình hạ tấng kỹ thuật và xã hội.Giải pháp phát triển nhiên liệu sinh học Biofuel là loại nhiên liệu sinh học sử dụng ngũ cốc làm nguyên liệu. Các nước phát triển đang nỗ lực tìm cách thay thế nhiên liệu hóa thạch bằng nhiên liệu sinh học. Phần lớn lượng ethanol (dùng để chạy xe hơi) sản xuất từ ngũ cốc của Mỹ được dùng để xuất khẩu sang châu Âu, nơi có giá cao hơn ở Mỹ. Hiện nay tồn tại một nghịch lý là trong khi nhiều quốc gia đang phát triển khác, đặc biệt ở châu Phi, nạn đói vẫn đang hoành hành, thì ngũ cốc ở các nước phát triển lại được dùng để sản xuất ethanol chạy xe hơi. Vài thập kỷ gần đây giá lương thực luôn có xu hướng tăng. Vì vậy, nỗ lực sản xuất nhiên liệu sạch và nỗ lực xóa đói giảm nghèo ở các quốc gia đang phát triển cần theo nguyên tắc đồng phát triển (co-development) nhằm đạt sự cân bằng giữa các nước phát triển và các nước đang phát triển để bảo đảm phát triển bền vững.Cơ quan Năng lượng quốc tế (IEA) kêu gọi thế giới cần giảm số lượng phương tiện vận tải sử dụng động cơ nhiên liệu hóa thạch từ mức 95% hiện nay xuống 40% vào năm 2030. Các phương tiện chạy bằng điện và phương tiện hy-brít (vừa chạy bằng điện vừa chạy bằng xăng, dầu) cần chiếm đa số trong các phương tiện mới sản xuất trong 20 năm tới.Thế giới cần đầu tư tới 10 nghìn tỷ USD trong giai đoạn 2010 - 2020 để ứng phó với tình trạng biến đổi khí hậu toàn cầu. Số tiền khổng lồ này chủ yếu đầu tư vào việc phát triển năng lượng sạch như năng lượng Mặt Trời, xây dựng các nhà máy điện hạt nhân mới và các nguồn năng lượng tái sinh khác để giảm sự nóng lên của Trái đất. Liên hợp quốc đề nghị xây dựng Quỹ Năng lượng sạch toàn cầu để hỗ trợ các nguồn năng lượng tái sinh nhằm thúc đẩy chuyển giao công nghệ năng lượng sạch cho các nước đang phát triển. Quá trình này sẽ giúp các nước nghèo tham gia hiệu quả chương trình sản xuất năng lượng sạch mà vẫn đáp ứng các mục tiêu phát triển kinh tế. Sự giúp đỡ kinh tế của các nước giàu để ngăn chặn tình trạng biến đổi khí hậu có vai trò rất lớn. Tổ chức Viện trợ quốc tế Oxfam kêu gọi các nước phát triển đầu tư 150 tỷ USD/năm cho các chương trình tài trợ cắt giảm khí thải và thích nghi với tình trạng biến đổi khí hậu. Tổ chức Liên hợp quốc cũng đề nghị các nước giàu cần dành ra 500 tỷ USD/năm từ nay đến năm 2030 (khoảng 1% GDP) để hỗ trợ các nước đang phát triển và các nước nghèo chống biến đổi khí hậu, bởi vì đây là vấn đề toàn cầu, cần có sự chung tay của cộng đồng quốc tế. Số tiền này sẽ giúp chi trả cho những kế hoạch giảm khí thải bằng việc sử dụng các công nghệ tốt hơn cho môi trường, tránh sự thoái hóa rừng và thích ứng với biến đổi khí hậu của các nước đang phát triển./.
Dư luận về biến đổi khí hậu có mối liên hệ với một loạt các biến số rộng, trong đó bao gồm tác động của các yếu tố xã hội nhân khẩu học, chính trị, văn hóa, kinh tế và môi trường[3] cũng như phạm vi đưa tin của phương tiện truyền thông[4] và sự tương tác với các tin tức và phương tiện truyền thông xã hội khác nhau.[5] Dư luận quốc tế về biến đổi khí hậu cho thấy phần lớn đều coi cuộc khủng hoảng này là một trường hợp khẩn cấp.
Thăm dò dư luận là một phần quan trọng trong việc nghiên cứu truyền thông về khí hậu và cách cải thiện các hành động ứng phó với biến đổi khí hậu, bằng chứng về dư luận có thể giúp tăng cường cam kết hành động của những người ra quyết định.[6] Các cuộc khảo sát và thăm dò ý kiến để đánh giá dư luận đã được thực hiện từ những năm 1980, lúc đầu tập trung vào nhận thức, nhưng dần dần đưa vào nhiều chi tiết hơn về các cam kết hành động vì khí hậu. Gần đây hơn, các cuộc khảo sát toàn cầu đưa ra dữ liệu chi tiết hơn nhiều, ví dụ, vào tháng 1 năm 2021, Chương trình Phát triển của Liên Hợp Quốc đã công bố kết quả của Cuộc bỏ phiếu về khí hậu của nhân dân. Đây là cuộc khảo sát về khí hậu lớn nhất từ trước đến nay, với phản hồi từ 1,2 triệu người ở 50 quốc gia, cho thấy 64% số người được hỏi coi biến đổi khí hậu là trường hợp khẩn cấp, trong đó bảo tồn rừng và đất là giải pháp phổ biến nhất.[7]
Theo một bài báo năm 2015 dựa trên đánh giá tài liệu của hàng nghìn bài báo liên quan đến hơn hai trăm nghiên cứu trong giai đoạn từ năm 1980 đến năm 2014, nhận thức của công chúng về biến đổi khí hậu đã tăng lên vào những năm 1980 và đầu những năm 1990, sau đó là giai đoạn lo ngại ngày càng tăng - kết hợp với sự gia tăng các lập trường xung đột - vào cuối những năm 1990 và đầu những năm 2000. Tiếp theo đó là giai đoạn "mối quan tâm của công chúng giảm sút và thái độ hoài nghi gia tăng" ở một số quốc gia vào giữa những năm 2000 đến cuối những năm 2000. Từ năm 2010 đến 2014, đã có một giai đoạn cho thấy "sự ổn định có thể có trong mối quan tâm của công chúng về biến đổi khí hậu".[8]
Cuộc thăm dò Rủi ro Thế giới năm 2021 của Quỹ Lloyd's Register do Gallup thực hiện cho thấy 67% người dân coi biến đổi khí hậu là mối đe dọa đối với người dân ở quốc gia của họ, giảm nhẹ so với mức 69% vào năm 2019, có thể là do đại dịch COVID-19 và tác động của nó đến sức khỏe và sinh kế đang là những vấn đề cấp bách.[9][10] Cuộc thăm dò năm 2021 được tiến hành tại 121 quốc gia với hơn 125.000 cuộc phỏng vấn. Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng nhiều quốc gia và khu vực có nhiều kinh nghiệm về thiên tai, bao gồm cả những thiên tai xảy ra thường xuyên và nghiêm trọng hơn do biến đổi khí hậu, cũng đồng thời là những quốc gia có khả năng phục hồi thấp.[11]
Một cuộc khảo sát năm 2021 do Viện các Vấn đề Kinh tế (IEA) thực hiện cho thấy 75% số người Anh trẻ tuổi (16-24 tuổi) được hỏi đồng ý với quan điểm cho rằng biến đổi khí hậu là vấn đề đặc thù của chủ nghĩa tư bản.[12]
Hơn 73.000 người nói 87 ngôn ngữ khác nhau ở 77 quốc gia đã được hỏi 15 câu hỏi về biến đổi khí hậu cho Cuộc bỏ phiếu về khí hậu của nhân dân năm 2024, một cuộc khảo sát dư luận về biến đổi khí hậu, được tiến hành cho Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (UNDP) phối hợp với Đại học Oxford và GeoPoll. Nó cho thấy 80% người dân trên toàn cầu muốn chính phủ của họ hành động mạnh mẽ hơn để giải quyết cuộc khủng hoảng khí hậu.[13]
Năm 2024, Ipsos đã tiến hành một cuộc khảo sát về tầm quan trọng của các vấn đề khí hậu trong các cuộc bầu cử. Nghiên cứu phát hiện ra rằng trong số các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định của cử tri, biến đổi khí hậu thường đứng ở vị trí quan trọng thứ 10, kém xa các vấn đề khác, đặc biệt là lạm phát. Điều này khiến một số chuyên gia lo ngại vì khoảng 4 tỷ người từ hơn 65 quốc gia, chịu trách nhiệm cho 40% lượng khí thải, dự kiến sẽ tham gia bầu cử quốc gia vào năm 2024.[14]
Cuộc thăm dò toàn cầu lớn đầu tiên do Gallup tiến hành vào năm 2008–2009 tại 127 quốc gia cho thấy khoảng 62% người dân trên toàn thế giới cho biết họ biết về hiện tượng nóng lên toàn cầu. Ở các nước công nghiệp hóa ở Bắc Mỹ, Châu Âu và Nhật Bản, 67% người dân hoặc hơn biết về nó (97% ở Hoa Kỳ, 99% ở Nhật Bản); ở các nước đang phát triển, đặc biệt là ở Châu Phi, ít hơn một phần tư người dân biết về nó, mặc dù nhiều người đã nhận thấy những thay đổi về thời tiết tại địa phương. Kết quả khảo sát cho thấy từ năm 2007 đến năm 2010, chỉ có 42% dân số thế giới nhận thức được về biến đổi khí hậu và tin rằng nó là do hoạt động của con người gây ra. Trong số những người nhận thức được hiện tượng nóng lên toàn cầu, có sự khác biệt lớn giữa các quốc gia trong việc tin rằng sự nóng lên có phải là kết quả do hoạt động của con người gây ra không.[16][17]
Người trưởng thành ở Châu Á, ngoại trừ ở các nước phát triển, là nhóm những người ít coi hiện tượng nóng lên toàn cầu là một mối đe dọa nhất. Ở các nước châu Á đã phát triển như Hàn Quốc, nhận thức về biến đổi khí hậu gắn liền với niềm tin cảm xúc mạnh mẽ về nguyên nhân gây ra nó.[18] Ở phương Tây, người dân có tỉ lệ nhận thức và coi đó là mối đe dọa rất hoặc khá nghiêm trọng đối với bản thân và gia đình họ cao nhất;[19] mặc dù người châu Âu quan tâm đến biến đổi khí hậu nhiều hơn ở Hoa Kỳ.[20] Châu Phi, nơi dễ bị tổn thương nhất trước sự đe dọa của hiện tượng nóng lên toàn cầu dù sản xuất ít carbon dioxide nhất, lại là nơi mà người dân có ít nhận thức về hiện tượng này nhất – tức là họ không coi đó là một mối đe dọa.[19]
Ở những quốc gia có sự khác biệt về nhận thức, khoảng cách trong giáo dục sẽ dẫn đến khoảng cách về nhận thức.[21] Tuy nhiên, việc nâng cao nhận thức không phải lúc nào cũng đồng nghĩa với việc tăng khả năng nhận thức được đe dọa. Ở Trung Quốc, 98% những người đã hoàn thành chương trình giáo dục đại học bốn năm hoặc nhiều hơn cho biết họ biết một chút hoặc rất nhiều về biến đổi khí hậu trong khi chỉ có 63% những người đã hoàn thành chín năm giáo dục cho biết như vậy. Bất chấp sự khác biệt về nhận thức ở Trung Quốc, tất cả các nhóm đều nhận thấy mức độ đe dọa thấp từ hiện tượng nóng lên toàn cầu. Ở Ấn Độ, những người được giáo dục có tỉ lệ nhận thức cao hơn và cho biết họ coi hiện tượng nóng lên toàn cầu là một mối đe dọa hơn những người không được giáo dục.[22] Ở châu Âu, những người có trình độ học vấn cao hơn có tỉ lệ coi biến đổi khí hậu là một mối đe dọa nghiêm trọng cao hơn. Ngoài ra, còn tồn tại có mối liên hệ chặt chẽ giữa giáo dục và việc sử dụng Internet. Những người châu Âu sử dụng Internet nhiều hơn thì có tỉ lệ coi biến đổi khí hậu là một mối đe dọa nghiêm trọng cao hơn.[23] Tuy nhiên, một cuộc khảo sát đối với người trưởng thành ở Mỹ cho thấy "có ít sự bất đồng giữa những công dân có nền văn hóa đa dạng về những gì khoa học đã biết về biến đổi khí hậu". Ở Hoa Kỳ, quan điểm về biến đổi khí hậu của những người có trình độ khoa học và giáo dục cao hơn thì có tính phân cực hơn.[24]
Dư luận về biến đổi khí hậu có thể bị ảnh hưởng bởi việc người dân bỏ phiếu cho ai. Tuy phạm vi đưa tin của phương tiện truyền thông ảnh hưởng đến cách một số người nhìn nhận về biến đổi khí hậu nhưng các nghiên cứu cho thấy hành vi bỏ phiếu ảnh hưởng đến thái độ hoài nghi đối với hiện tượng biến đổi khí hậu. Điều này cho thấy quan điểm của mọi người về biến đổi khí hậu có xu hướng phù hợp với những người mà họ đã bỏ phiếu cho.[28]
Ở châu Âu, giữa các đảng cánh tả và cánh hữu không có sự chia rẽ sâu sắc trong quan điểm về vấn đề biến đổi khí hậu. Trong khi các đảng phái chính trị cánh tả ở châu Âu bao gồm cả Đảng Xanh ủng hộ mạnh mẽ các biện pháp giải quyết vấn đề biến đổi khí hậu, các đảng phái chính trị bảo thủ ở châu Âu cũng giữ quan điểm tương tự, đáng chú ý nhất là ở Tây Âu và Bắc Âu. Ví dụ, Margaret Thatcher chưa bao giờ là một người bạn của ngành khai thác than, bà ủng hộ mạnh mẽ các chính sách bảo vệ khí hậu tích cực và đóng vai trò quan trọng trong việc thành lập Ủy ban Liên chính phủ về Biến đổi Khí hậu và Trung tâm Dự đoán và Nghiên cứu Khí hậu Hadley của Anh.[29] Một số bài phát biểu của bà như bài phát biểu tại Hội Vương thất Luân Đôn vào ngày 27 tháng 9 năm 1988[30] và tại Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc vào tháng 11 năm 1989 đã giúp đưa vấn đề biến đổi khí hậu, mưa axit và ô nhiễm nói chung vào luồng chính thống của Anh. Tuy nhiên, sau sự nghiệp của mình, Thatcher ít hoạt động vì khí hậu hơn vì bà gọi hành động vì khí hậu là "cái cớ tuyệt vời cho chủ nghĩa xã hội siêu quốc gia" và gọi Al Gore là một "sự cường điệu về ngày tận thế".[31] Tổng thống trung hữu Chirac của Pháp đã thúc đẩy các chính sách quan trọng về môi trường và biến đổi khí hậu tại Pháp trong giai đoạn 2005–2007. Chính quyền bảo thủ của Đức (thuộc Liên minh Dân chủ Kitô giáo và Liên minh Xã hội Kitô giáo) đã ủng hộ các sáng kiến về biến đổi khí hậu của Liên minh châu Âu trong suốt hai thập kỷ qua; mối quan tâm về tình trạng rừng chết và các quy định về mưa axit đã được khởi xướng dưới thời bộ trưởng Bộ nội vụ Friedrich Zimmermann thuộc nội các theo phe bảo thủ của Thủ tướng Kohl. Trong giai đoạn sau khi cựu Tổng thống George W. Bush tuyên bố Hoa Kỳ sẽ rời khỏi Nghị định thư Kyōto, các phương tiện truyền thông và báo chí châu Âu thuộc cả cánh tả và cánh hữu đều chỉ trích động thái này. Tờ báo bảo thủ La Razón của Tây Ban Nha, tờ Irish Times, tờ Irish Independent, tờ Berlingske Tidende của Đan Mạch và tờ Kathimerini của Hy Lạp đều lên án quyết định của chính quyền Bush, tương tự như các tờ báo thiên tả.[32]
IPCC cố gắng điều phối các cuộc nghiên cứu về biến đổi khí hậu toàn cầu nhằm hình thành một sự đồng thuận trên toàn thế giới về vấn đề này, theo một bài báo năm 1996.[33] Tuy nhiên, cách tiếp cận đồng thuận đã bị xem là một gánh nặng thay vì mang lại lợi ích khi so sánh với các thách thức môi trường khác.[34][35] Năm 2010, một bài viết trên tờ Current Sociology cho biết mô hình tuyến tính của việc hoạch định chính sách dựa trên thuyết nếu có nhiều kiến thức hơn thì sẽ có phản ứng chính trị tốt hơn được cho là không hiệu quả và vào lúc đó đã bị khoa học xã hội học bác bỏ.[36]
Trong một bài báo năm 1999, Sheldon Ungar, một nhà xã hội học người Canada, đã so sánh những phản ứng khác nhau của công chúng đối với sự suy giảm tầng ôzôn và biến đổi khí hậu.[37] Dư luận đã không liên kết được biến đổi khí hậu với các sự kiện cụ thể có thể được sử dụng như một ngưỡng hoặc ngọn hải đăng để báo hiệu mối nguy hiểm trước mắt.[37] Dự báo khoa học về sự gia tăng nhiệt độ từ hai đến ba độ C trong vài thập kỷ không được người dân, chẳng hạn như ở Bắc Mỹ, cảm nhận một cách rõ rệt, khi họ thường xuyên trải qua những biến động nhiệt độ tương tự trong một ngày.[37] Khi các nhà khoa học định nghĩa sự nóng lên toàn cầu là một vấn đề của tương lai, một gánh nặng trong "nền kinh tế sức chú ý" thì những quan điểm bi quan nói chung và việc gán thời tiết cực đoan cho biến đổi khí hậu thường trở nên mất uy tín hoặc bị chế giễu (so sánh hiệu ứng Gore) trong diễn đàn công cộng.[38] Trong khi hiệu ứng nhà kính bản thân nó rất cần thiết cho sự sống trên Trái Đất thì trường hợp của lá chắn tầng ozon và những ẩn dụ khác về sự suy giảm tầng ozon lại khá khác biệt. Đánh giá khoa học về vấn đề tầng ozon cũng có nhiều sự không chắc chắn. Tuy nhiên, những phép ẩn dụ được sử dụng trong cuộc thảo luận (tấm chắn ozon, lỗ thủng ozon) lại phản ánh tốt hơn với người dân và những mối quan tâm của họ.
Những ẩn dụ dễ hiểu này và những giả định rủi ro cá nhân xuất phát từ chúng đã làm lợi cho những nỗ lực quản lý khí CFC vào cuối những năm 1980. Ngoài ra, số phận của những người nổi tiếng như trường hợp Tổng thống Ronald Reagan phải phẫu thuật cắt bỏ ung thư da vào năm 1985 và 1987 cũng đóng vai trò rất quan trọng. Trong trường hợp dư luận về biến đổi khí hậu, không có mối nguy hiểm sắp xảy ra nào mà người dân có thể nhận thấy được.[39]
Kinh nghiệm cá nhân và việc nhận thấy những thay đổi về thời tiết do biến đổi khí hậu có thể thúc đẩy mọi người tìm ra giải pháp và hành động. Sau khi trải qua tình trạng mất mùa do hạn hán ở Nepal, người dân có xu hướng tìm ra và áp dụng các chiến lược thích ứng để chống lại các yếu tố khiến họ trở nên dễ bị tổn thương mà họ phải đối mặt hơn.[40]
Ngoài việc nghiên cứu sự khác biệt trong nhận thức về biến đổi khí hậu ở các khu vực địa lý lớn, các nhà nghiên cứu đã xem xét tác động của khả năng quan sát trực tiếp đối với từng công dân. Trong cộng đồng khoa học và học thuật, vẫn có tranh luận về việc liệu việc tận mắt chứng kiến các tác động của biến đổi khí hậu có thực sự hữu ích hay không. Mặc dù một số nhà khoa học coi thường các bằng chứng giai thoại, các báo cáo trực tiếp đã được nghiên cứu để có thể tiếp cận các cộng đồng địa phương một cách tốt hơn và hiểu rõ hơn về nhận thức của họ đối với hiện tượng biến đổi khí hậu.[41] Các giải pháp về khí hậu được trình bày cho lĩnh vực tư và công đã tập trung vào việc mang lại kiến thức trực quan và các hành động thực tế hàng ngày, được thiết kế để có thể thúc đẩy mọi người tham gia nhiều hơn nữa, ví dụ như việc các thành viên cộng đồng thực hiện các chuyến tham quan về biến đổi khí hậu và lập bản đồ cây cối trong khu phố của họ.[42]
Trái ngược với đánh giá rủi ro, mức độ nhận thức rủi ro liên tục được đánh giá trong các cuộc nghiên cứu mang tính địa phương có quy mô nhỏ hơn này. Trong một nghiên cứu vào năm 2018 về những người sống gần hệ sinh thái đất ngập nước ở Florida Everglades, việc tham gia các hoạt động giải trí ngoài trời, độ cao và khoảng cách từ vị trí nơi ở của họ so với mực nước biển trung bình là những yếu tố có ảnh hưởng đến mức độ ủng hộ của họ đối với các chính sách bảo tồn môi trường.[43] Những người thường xuyên đi biển và những người đam mê các bộ môn giải trí ngoài trời khác cảm thấy lo ngại về hiện tượng mực nước biển thay đổi được coi là những người có khả năng huy động. Một nghiên cứu khác vào năm 2018 cho thấy 56% người câu cá giải trí được lấy ý kiến trong khu vực cho biết "việc có thể nhìn thấy các loài động vật hoang dã khác" là rất hoặc cực kỳ quan trọng và 60% cho rằng "rất quan tâm" đến sự khỏe mạnh của hệ sinh thái Everglades.[44] Ở các thành phố quan trọng của Mỹ, khả năng nhìn thấy tình trạng căng thẳng về nước và/hoặc sự gần gũi với các nguồn nước đã làm tăng sức mạnh của chính sách bảo tồn nước ở khu vực đó.[45] Nguồn cung cấp nước đang suy giảm hoặc lũ lụt có thể được coi là các động lực thúc đẩy lập trường của công chúng về biến đổi khí hậu. Tuy nhiên, ở những vùng khô cằn nơi nước ít xuất hiện hơn, điều này làm dấy lên mối lo ngại về chính sách yếu kém ở những nơi thực sự cần nước.
Trong các nền văn hóa và ngôn ngữ khác nhau, việc sử dụng phương tiện truyền thông mạng xã hội với vai trò là một nguồn tin tức có mối tương quan với mức độ hoài nghi biến đổi khí hậu thấp hơn.[46] Một đặc điểm nổi bật của việc thảo luận về biến đổi khí hậu trên mạng xã hội là việc nền tảng này cho phép các nhà hoạt động tham gia một cách trực tiếp. Ví dụ như, trong một nghiên cứu về việc sử dụng các phần bình luận trên các video YouTube liên quan đến biến đổi khí hậu, một nhóm người dùng cốt lõi bao gồm cả những nhà hành động vì khí hậu và những người hoài nghi đã xuất hiện nhiều lần trong phần bình luận, trong đó hầu hết mọi người về phe hành động vì khí hậu.[47] Mặc dù thường bị chỉ trích là chỉ củng cố thay vì thách thức quan điểm của người dùng, phương tiện truyền thông xã hội cũng đã được chứng minh là đóng một vai trò nhất định trong việc phản ánh nhận thức. Một nghiên cứu về diễn đàn trên Reddit đã nhấn mạnh rằng "trong khi một số cộng đồng bị chi phối bởi các quan điểm ý thức hệ cụ thể thì có những cộng đồng khác lại có tính gợi ý đối với những cuộc tranh luận có tính cân nhắc hơn."[48]
Đã tồn tại một sự đồng thuận khoa học về biến đổi khí hậu, được công nhận bởi các viện hàn lâm khoa học quốc gia và các cơ quan có thẩm quyền khác. Tuy nhiên, các nghiên cứu đã xác định thấy có một sự khác biệt đáng kể về mặt địa lý trong mức độ hiểu biết của công chúng đối với đồng thuận khoa học này.[53]
Có sự khác biệt rõ rệt giữa ý kiến của các nhà khoa học và ý kiến của công chúng nói chung.[54][55] Một cuộc thăm dò năm 2009 tại Hoa Kỳ cho thấy "[mặc dù] 84% các nhà khoa học cho rằng Trái Đất đang nóng lên là do các hoạt động của con người, ví dụ như việc đốt nhiên liệu hóa thạch, thì chỉ có 49% công chúng đồng ý với điều đó".[56] Một cuộc thăm dò năm 2010 tại Vương quốc Anh của BBC cho thấy "Sự hoài nghi về hiện tượng biến đổi khí hậu đang gia tăng".[57] Robert Watson cho rằng điều này "rất đáng thất vọng" và nói rằng "Chúng ta cần công chúng hiểu rằng biến đổi khí hậu là một vấn đề nghiêm trọng để từ đó họ có thể thay đổi thói quen của mình và giúp chúng ta hướng tới một nền kinh tế ít carbon."[57]
Một cuộc thăm dò năm 2009 về vấn đề "liệu một số nhà khoa học có làm sai lệch dữ liệu nghiên cứu để hỗ trợ cho các lý thuyết và niềm tin của riêng họ về sự nóng lên toàn cầu hay không" đã cho thấy, 59% người Mỹ tin rằng điều đó "ít nhất là có khả năng xảy ra", và 35% tin rằng "rất có khả năng xảy ra".[58]
Một nghiên cứu năm 2018 cho thấy mọi người có nhiều khả năng chấp nhận rằng nhiệt độ toàn cầu đang tăng lên nếu họ được cho xem thông tin dưới dạng biểu đồ thay vì dưới dạng văn bản.[59][60]
Các phương tiện truyền thông đại chúng ở Hoa Kỳ chú ý nhiều đến những người hoài nghi hơn là đến cộng đồng khoa học nói chung và mức độ đồng thuận trong cộng đồng khoa học vẫn chưa được truyền đạt một cách chính xác.[61][62] Phạm vi đưa tin của phương tiện truyền thông đại chúng Hoa Kỳ khác với ở các quốc gia khác nơi việc đưa tin nhất quán với các tài liệu khoa học hơn.[63] Một số nhà báo cho rằng sự khác biệt này là do tình trạng phủ nhận biến đổi khí hậu đang được lan truyền, chủ yếu ở Hoa Kỳ, bởi các tổ chức kinh doanh sử dụng các chiến thuật mà nhóm vận động hành lang đối với thuốc lá ở Hoa Kỳ đã xây dựng trước đó.[64][65][66] Tuy nhiên, một nghiên cứu cho thấy rằng những chiến thuật này ít thấy trên phương tiện truyền thông hơn mà thay vào đó công chúng tự rút ra ý kiến của mình về hiện tượng biến đổi khí hậu chủ yếu từ những gợi ý của giới tinh hoa thuộc các đảng phái chính trị.[67]
Một nguyên nhân khác khiến công chúng phủ nhận biến đổi khí hậu có thể là do cảm thấy mệt mỏi vì tiếp xúc quá nhiều với chủ đề này: một số cuộc thăm dò cho thấy công chúng có thể đã nản lòng vì tính cực đoan của các cuộc thảo luận về chủ đề này,[68] trong khi các cuộc thăm dò khác cho thấy 54% cử tri Hoa Kỳ tin rằng "phương tiện truyền thông đưa tin làm cho tình trạng nóng lên toàn cầu có vẻ tồi tệ hơn thực tế".[69]
Dư luận tác động đến vấn đề biến đổi khí hậu vì chính phủ cần có sự ủng hộ của cử tri và công dân để thực hiện các chính sách giải quyết biến đổi khí hậu. Hơn nữa, khi nhận thức về biến đổi khí hậu của người dân và chính phủ có sự khác nhau, việc truyền đạt rủi ro tới công chúng sẽ trở nên khó khăn. Cuối cùng, công chúng không nhận thức được các vấn đề liên quan đến biến đổi khí hậu có thể phản đối hoặc chống lại các chính sách về biến đổi khí hậu, điều có tầm quan trọng đáng kể đối với các chính trị gia và lãnh đạo nhà nước.[70]
Sự ủng hộ của công chúng đối với hành động ngăn chặn sự nóng lên toàn cầu cũng mạnh mẽ như sự ủng hộ của công chúng đối với nhiều hành động khác của chính phủ trong lịch sử; tuy nhiên, nó không "mạnh mẽ" theo nghĩa có thể lấn át các mối ưu tiên khác.[71][72]
Một bài báo năm 2017 cho biết sự thay đổi trong dư luận theo hướng ủng hộ chủ nghĩa bảo vệ môi trường đã làm tăng mạnh việc áp dụng các chính sách năng lượng tái tạo ở Châu Âu.[73] Một bài báo năm 2020 cho biết các quốc gia có nhiều người tin vào biến đổi khí hậu do con người gây ra có xu hướng có giá carbon cao hơn.[74]
Theo cuộc thăm dò của Gallop năm 2011, tỷ lệ người Mỹ tin rằng tác động của hiện tượng nóng lên toàn cầu đã bắt đầu hoặc sẽ bắt đầu trong vài năm nữa đã tăng lên mức đỉnh điểm vào năm 2008 sau đó giảm xuống, đồng thời niềm tin cho rằng hiện tượng nóng lên toàn cầu là mối đe dọa đối với lối sống của họ trong suốt cuộc đời họ cũng có xu hướng tương tự.[75] Mối quan tâm về hiện tượng nóng lên toàn cầu thường có mối tương quan với suy thoái kinh tế và khủng hoảng quốc gia như vụ việc 11/9 vì người Mỹ ưu tiên kinh tế và an ninh quốc gia hơn các vấn đề về môi trường. Tuy nhiên, sự sụt giảm mối quan tâm tới vấn đề biến đổi khí hậu vào năm 2008 là độc nhất khi so với các vấn đề môi trường khác.[76] Xét trong bối cảnh các vấn đề môi trường, người Mỹ coi hiện tượng nóng lên toàn cầu là mối quan tâm ít nghiêm trọng hơn so với ô nhiễm sông, hồ và nước uống; chất thải độc hại; nhu cầu nước ngọt; ô nhiễm không khí; hư hỏng tầng ôzôn; và mất rừng mưa nhiệt đới. Tuy nhiên, người Mỹ ưu tiên vấn đề nóng lên toàn cầu hơn là vấn đề tuyệt chủng loài và mưa axit.[77] Kể từ năm 2000, khoảng cách đảng phái đã gia tăng khi quan điểm của Đảng Cộng hòa và Đảng Dân chủ trở nên khác nhau.[78]
Disclaimer: Open Development Vietnam will thoroughly review all submitted resources for integrity and relevancy before the resources are hosted. All hosted resources will be in the public domain, or licensed under Creative Commons. We thank you for your support.